Nguyên Lam: Ban
Việt ngữ đài Á Châu Tự Do cùng Nguyên Lam xin kính chào chuyên gia kinh
tế Nguyễn-Xuân Nghĩa. Biến cố 30 Tháng Tư 1975 đã được Chính quyền Việt
Nam chào mừng như một cuộc giải phóng và thống nhất đất nước dưới chế
độ xã hội chủ nghĩa, do một đảng độc quyền lãnh đạo. Nhìn về mặt kinh tế
thì Việt Nam có chuyển biến, nhất là sau 10 năm khủng hoảng và hai đợt
đổi mới vào các năm 1986 và 1991. Trong năm qua, Việt Nam còn đạt mức
tăng trưởng khả quan là 6,8 % nên Chính quyền có thể hài lòng với thành
tích ấy. Riêng ông thì thấy thế nào?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: -
Nếu nhìn trên cái trục thời gian thì quả thật là Việt Nam đã có thay
đổi sau khi tiến hành cải cách gọi là “đổi mới”. Nhưng tại sao lại phải
đổi mới nếu xã hội chủ nghĩa là điều hay đẹp và cần thiết cho Việt Nam
như giới lãnh đạo đã nói sau 1975? Nếu nhìn trên cái trục không gian, là
so sánh với các lân bang, thì Việt Nam vẫn còn tụt hậu sau khi đã trả
một cái giá quá đắt cho một cuộc chiến tương tàn. Điều thứ ba là cái đà
tăng trưởng 6,8 % do Tổng cục Thống kê đã tính ra cho năm 2017 qua, coi
như thuộc loại cao của Châu Á thì tôi cho là họ nên tính lại vì cũng áp
dụng phương pháp kế toán quốc gia của Bắc Kinh nên không đáng tin. Cứ
cộng các nhập lượng ở đầu vào, như số tín dụng hay mức tăng lương, mà
coi đó là trị giá gia tăng của sản xuất là một sai lầm về kế toán. Cũng
thế, thị trường chứng khoán Việt Nam được coi là tăng mạnh nhất nhưng đã
lên tới đỉnh và đang tuột đáy vào tuần trước. Dù sao đấy là chuyện nhỏ.
Chuyện lớn là hơn 40 năm sau khi xây dựng xã hội chủ nghĩa thì chủ
nghĩa này đang có dấu hiệu tàn tạ!
Nguyên Lam: Nhân chuyện 30 Tháng Tư, Thính giả của chúng ta mong ông giải thích cho sự thể ấy. Thế nào là tàn tạ, thưa ông?
Nguyễn-Xuân Nghĩa:
- Chúng ta khó quên khẩu hiệu “tiến nhanh tiến mạnh tiến vững chắc lên
xã hội chủ nghĩa” do Việt Nam đề ra sau năm 1975. Sự thật thì giới lý
luận của Hà Nội không định nghĩa được “xã hội chủ nghĩa” là gì mà đòi
xóa bỏ tất cả những gì họ cho là không thuộc xã hội chủ nghĩa, gọi đó là
“cải tạo”. Vì tính chủ quan duy ý chí khi có toàn quyền trong tay, họ
đòi cải tạo “quan hệ sản xuất” để từ đó nâng “phương thức sản xuất” lên
một trình độ cao hơn, là phương thức sản xuất xã hội chủ nghĩa. Việc cải
tạo quan hệ sản xuất chỉ xóa bỏ quyền tư hữu vật liệu sản xuất và tổ
chức lại hệ thống lao động và phân phối sản phẩm. Đã vậy, cũng do ý thức
hệ Xô viết, Hà Nội còn lao vào cuộc chiến Kampuchia trong 10 năm khiến
tổng sản lượng bị mất mỗi năm 5%. Hậu quả là kinh tế bị khủng hoảng, sản
xuất suy sụp và lạm phát tăng. Vì vậy, Hà Nội phải tiến hành đổi mới,
là áp dụng quy luật thị trường, nhất là sau khi Liên Xô tan rã, nhưng
giới lãnh đạo vẫn tiếc cái đuôi xã hội chủ nghĩa.
Định hướng Xã hội chủ nghĩa
Nguyên Lam:
Thưa ông có phải vì vậy mà lãnh đạo của Việt Nam mới phát minh ra phạm
trù “kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa” hay không?
Khác với ngày xưa thì “chuyên chính vô sản” là “chuyên chính trên đầu giai cấp vô sản”, ngày nay Việt Nam đã khá hơn khi theo quy luật thị trường, nhưng chỉ để xây dựng chế độ tư bản nhà nước, y hệt như Trung Quốc, mà thực chất là chế độ tư bản thân tộc cho tay chân của đảng và nhà nước, là đảng viên cán bộ.
-Nguyễn Xuân Nghĩa
Nguyễn-Xuân Nghĩa:
- Như bên Tầu, họ vừa mò chân tìm đá mà bước qua dòng! Ban đầu còn là
“kinh tế thị trường theo định hướng nhà nước”, sau Đại hội X mới lết cái
đuôi “xã hội chủ nghĩa” mà chẳng ai minh định nổi nội dung đó là gì!
-
Gần 20 năm trước, tôi gặp lại ông bác họ, là người đã tiến hành đổi mới
đợt đầu, và được ông bảo rằng trong Bộ Chính Trị không ai giải thích
được cái định hướng ấy là gì. Ông còn hỏi tôi nghĩ sao! Tôi có trình bày
như thế này và ngày nay nhìn lại thì thì càng thấy ra sự tàn tạ:
-
“Khi sinh con đẻ cái thì ai ai cũng ưa đặt tên thật đẹp, nhưng quan
trọng là việc giáo dục sau đó. Lãnh đạo một nước nghèo, bị chiến tranh
và cả sự u mê tàn phá, thì cần ưu tiên lo cho đa số dân nghèo trong xã
hội. Ra khỏi sự u mê và áp dụng quy luật thị trường thì sản xuất có thể
tăng, nhưng ai sẽ hưởng các sản phẩm đó một cách công bằng? Trong 20 năm
đầu, thì nhà nước nên ưu tiên lo cho dân nghèo từ nông thôn trở lên chứ
đừng duy ý chí đi từ trên xuống cho bằng các quốc gia đi trước. Mọi
chính sách đều phải đi từ dưới lên và coi công bằng là trọng, cho đa số
có thể tham gia sản xuất với năng suất cao hơn thì sẽ có lợi tức khá
hơn. Nếu gọi đó là “xã hội chủ nghĩa” thì cũng được, nhưng phải ra khỏi
bóng rợp của chủ nghĩa Mác-Lênin”.
Nguyên Lam: Ông kể lại câu chuyện của gần hai chục năm trước và đối chiếu với ngày nay thì thấy sao?
Nguyễn-Xuân Nghĩa:
- Ngày nay, cái “định hướng xã hội chủ nghĩa” vô hình và vô tâm đó đang
phá sản! Kinh tế mắc nợ ngập đầu vì thiểu số ăn trên ngồi chốc, ngân
sách bị bội chi vì quá nhiều lãng phí cho bộ máy cầm quyền, nên người ta
đòi giảm chi và tăng thuế trong khi xã hội trở thành cực kỳ bất công
hơn, với đại đa số vẫn sống trong cảnh bần cùng. Hơn 40 năm sau khi được
hứa hẹn thiên đường xã hội chủ nghĩa, những người u mê nhất cũng thấy
rằng đấy là một cơn ác mộng.
Nguyên Lam: Chúng ta sẽ phải đi từng bước để hiểu ra kết luận bi quan vừa rồi của ông.
Nguyễn-Xuân Nghĩa:
- Tôi xin nhấn mạnh một lần nữa rằng ưu tiên của xã hội chủ nghĩa trong
các nước văn minh là công bằng xã hội, trong các xứ nhược tiểu là dân
nghèo. Các đảng phái chính trị thuộc hai cánh tả hữu có thể đề ra ưu
tiên ấy và phải thực thi, nếu không thì thất cử. Tại Việt Nam, chuyện
bầu cử đó không thể có vì đảng và nhà nước quyết định tất cả dưới chiêu
bài “xã hội chủ nghĩa”.
-
Khác với ngày xưa thì “chuyên chính vô sản” là “chuyên chính trên đầu
giai cấp vô sản”, ngày nay Việt Nam đã khá hơn khi theo quy luật thị
trường, nhưng chỉ để xây dựng chế độ tư bản nhà nước, y hệt như Trung
Quốc, mà thực chất là chế độ tư bản thân tộc cho tay chân của đảng và
nhà nước, là đảng viên cán bộ.
-
Vì cái định hướng xã hội chủ nghĩa đó, Việt Nam có chế độ sở hữu mập mờ
về quan hệ sản xuất. Quyền tư hữu được chấp nhận nhưng chế độ công hữu
vẫn giữ vị trí chủ đạo, thể hiện qua khu vực kinh tế nhà nước, với các
tập đoàn hay tổng công ty được yểm trợ bằng các phương tiện sản xuất như
đất đai và tín dụng và được bảo vệ với chính sách cạnh tranh bất chính.
Các cơ sở sản xuất này thu dụng ít nhân công mà chất lên núi nợ, khi bị
lỗ lã và sức ép của quốc tế cùng các nước cấp viện thì cũng tư nhân hóa
hay cổ phần hóa rất chậm. Khi tiến hành việc đó thì các cơ sở quốc
doanh được định giá thấp vì trị giá “bèo” của quyền sử dụng đất và được
bán rẻ cho “tư nhân” là tay chân thân tộc ở bên trong. Vì vậy, ngân sách
thu về được ít tiền, nay đòi đánh thuế để giảm bội chi quá nặng. Xã hội
chủ nghĩa Việt Nam sản sinh ra các đại gia tỷ phú trong khi đa số người
dân vẫn cực nghèo.
Hậu quả
Nguyên Lam: Thế còn việc quản lý ngân sách thì cái định hướng xã hội chủ nghĩa dẫn tới những hậu quả gì, thưa ông?
Nguyễn-Xuân Nghĩa:
- Có lẽ 40% ngân sách quốc gia Việt Nam phải nuôi bộ máy nhân sự của
đảng và nhà nước, từ đảng viên mọi cấp tới hệ thống hành chính rồi bộ
máy công an, cảnh sát và quốc phòng. Thành phần nhân sự đó tăng quá
mạnh, chủ yếu là vì tăng lương chứ cũng chẳng vì cấp số lao động. Nhưng
đa số ở dưới vẫn chưa đủ sống nên lấy bổng bù vào lương, là gây ra nạn
tham nhũng và sách nhiễu người dân để kiếm tiền. Vì ngân sách cạn tiền,
Bộ Công An trù tính giảm dần cấp số nhân sự theo tinh thần vu vơ là “quý
hồ tinh bất quý hồ đa”. Tuy nhiên, sự kiện nhiều ông tướng công an đang
bị điều tra và kỷ luật cũng cho thấy hậu quả của hệ thống quyền thế
chính trị và thuộc tính của nó là nạn tham nhũng.
Tôi nghĩ là về dài, khu vực kinh tế quốc doanh sẽ suy bại dần, nhưng chưa nhìn thấy vai trò của tư doanh Việt Nam trong khi các cơ sở kiếm lời nhiều nhất vẫn là của nước ngoài. Như vậy, cái định hướng xã hội chủ nghĩa đang thành vô nghĩa.
-Nguyễn Xuân Nghĩa
--
Công an đã vậy, nhân sự về giáo dục lại còn thê thảm hơn. Thành phần
đào tạo ra thế hệ của tương lai cũng là thành phần khó sống nhất. Mà các
thế hệ cho tương lai khó được giáo dục và đào tạo cho đúng với yêu cầu
sau này. Trường ốc và học cụ thiếu thốn, học phí gia tăng, đa số dân
nghèo khó cho con đi học khi nhà nước chối bỏ trách nhiệm dưới khái niệm
“xã hội hóa giáo dục” là đòi xã hội trang trải.
-
Việt Nam rơi vào vòng luẩn quẩn là bộ máy công quyền có “lực lượng lao
động dư dôi”, tiếng là có việc có lương, mà thiếu khả năng, làm không đủ
sống và tìm cách trưng thu ở bên ngoài và trải rộng mạng lưới tham ô
vặt! Từ công an, giáo dục mà suy ra lĩnh vực y tế thì ta cũng thấy vấn
đề tương tự là sự kiệt quệ và sẽ vỡ nợ của quỹ an ninh xã hội, cơ chế
phụ trách về y tế, hưu liễm, trợ cấp thất nghiệp, v.v….
Nguyên Lam: Thưa ông, thế thì kinh tế thị trường có đóng góp được gì cho việc phát triển tại Việt Nam không?
Nguyễn-Xuân Nghĩa:
- Chắc chắn là có. Nó đẩy lui bàn tay thô nhám và bất tài của doanh
nghiệp nhà nước nhưng trao lợi nhuận cho nhà đầu tư ngoại quốc trong khi
tư doanh vẫn bị chèn ép trừ phi liên doanh với doanh nghiệp nước ngoài.
Thí dụ ai cũng biết là từ nhiều năm nay, tập đoàn Samsung của Nam Hàn
đã đầu tư 17 tỷ đô la vào Việt Nam, trở thành doanh nghiệp lớn hơn
PetroVietnam, đại gia quốc doanh trong lĩnh vực dầu khí. Kết quả,
Samsung giúp Việt Nam là nước xuất khẩu máy điện thoại tinh khôn thứ nhì
của thế giới, chỉ sau Trung Quốc, và đóng góp một thần tư số xuất khẩu
của Việt Nam, trị giá hơn 200 tỷ đô la. Họ thu về số lời là gần 60 tỷ!
Dân ta làm gia công cho họ mà lãnh đạo vẫn cứ nói phét.
-
Tôi nghĩ là về dài, khu vực kinh tế quốc doanh sẽ suy bại dần, nhưng
chưa nhìn thấy vai trò của tư doanh Việt Nam trong khi các cơ sở kiếm
lời nhiều nhất vẫn là của nước ngoài. Như vậy, cái định hướng xã hội chủ
nghĩa đang thành vô nghĩa.
Nguyên Lam: Nguyên Lam xin đề nghị ông kết luận về bài phân tích u ám này.
Nguyễn-Xuân Nghĩa:
- Hơn 40 năm sau chiến tranh, Việt Nam vẫn là nột nước tụt hậu sau
nhiều lân bang Đông Nam Á, nhưng đứng trên danh mục tham nhũng nặng theo
cuộc khảo sát của tổ chức Transparency International. Nguyên nhân là
đảng và nhà nước thiếu công minh, là công khai và minh bạch, với bộ máy
công quyền không bị trách nhiệm trước công luận. Trong khi ấy, chức năng
then chốt của một chính quyền xưng danh xã hội chủ nghĩa là lo cho xã
hội và tránh nạn bất công thì chính quyền lại còn đào sâu sự bất công
đó. Vì vậy, dân nghèo hết than vãn về nạn tham nhũng mà trở thành bi
quan về đời sống trước mặt. Họ đã tụt đến đáy rồi mà ở trên vẫn hô khẩu
hiệu vu vơ.
Nguyên Lam: Ban Việt ngữ đài Á Châu Tự Do cùng Nguyên Lam xin cảm tạ kinh tế gia Nguyễn-Xuân Nghĩa về bài phân tích kỳ này.
No comments:
Post a Comment